Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2009

Vườn quốc gia Tràm Chim

Dulichbui's Blog - Nằm lọt thỏm giữa vùng đất trũng ngập nước của Đồng Tháp Mười, Tràm Chim Tam Nông có diện tích tự nhiên 7.612 ha, thuộc địa phận 5 xã : Tân Công Sinh, Phú Đức, Phú Thọ, Phú Thành, Phú Hiệp và thị trấn Tràm Chim– huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Sau thời gian quy hoạch, phát triển và mở rộng, đầu năm 1999, nơi này chính thức được chính phủ công nhận là “Vườn quốc gia Tràm Chim”- niềm vui và tự hào lớn của nhân dân Đồng Tháp.

Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp với bao la sông nước, rừng tràm xanh ngút ngàn và thảm thực vật phong phú với hơn 130 loài khác nhau. Vùng đầt “sáu tháng đồng khô cỏ cháy, sáu tháng nước ngập trắng đồng” này cũng chính là nơi cư trú của hàng trăm loài động vật có xương sống, hàng chục loài cá và hơn 198 loài chim nước, chiếm khoảng 1/4 số loài chim có ở Việt Nam.

Vào mùa nước lên từ tháng tám đến tháng mười một, đi tắc ráng chạy vòng quanh, bạn sẽ cảm nhận được hết vẻ đẹp mà thiên nhiên đã hào phóng ban cho nơi này khi trải ra trước mắt ta là sen, súng, luá trời, năng, lác… cùng các loài động vật lươn, rắn, rùa, trăn; các loài cá đồng và chim muông như cò, diệc, vịt trời, cồng cộc… Trong số đó có nhiều loài chim quý hiếm trên thế giới như ngan cánh trắng, te vàng, bồ nông, già đãy Java và đặc biệt là sếu cổ trụi, hay còn gọi là sếu đầu đỏ. Chúng được xếp vào những loài động vật cần được bảo vệ vì đang có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới.

Hằng năm từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 5 là lúc đàn sếu bay về Tràm Chim cư trú. Đến đây vào thời gian này, bạn sẽ chứng kiến từng đàn sếu đầu đỏ bay về hòa cùng các loài chim khác để kiếm ăn - một cảnh tượng kì thú làm mê đắm lòng người. Nhiều con sếu cao đến gần 2m, bộ lông xám mượt, chân và cổ cao, đôi cánh dang rộng khi bay, dáng đi khoan thai, đủng đỉnh. Chúng tụ tập ngoài đồng năn, bay lượn chấp chới, xoè cánh múa nhịp nhàng, cất lên những tiếng kêu lảnh lót. Chắc chắn bạn sẽ bị hút hồn theo nhịp điệu cuả bầy sếu cùng khung cảnh huyền hoặc trong ánh hoàng hôn của buổi chiều tà…

Chính vì thế mà từ lâu cái tên Tràm Chim đã trở nên quen thuộc với báo chí và nhiều tổ chức quốc tế. Đã có rất nhiều đoàn khách nước ngoài vào nước ta để đến Tràm Chim tham quan, nghiên cứu. Hiện nay, vườn quốc gia Tràm Chim được Nhà nước đầu tư, nâng cấp mở rộng thành một bảo tàng thiên nhiên, một trung tâm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nhiều tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế cũng đã tài trợ để duy trì và bảo vệ Tràm Chim-vốn quý của nước ta nói chung và của Đồng Tháp nói riêng.

Về Đồng Tháp, đến Tràm Chim Tam Nông ngắm đàn sếu múa đôi, nghe rừng tràm xào xạc, chắc chắn sẽ là những kỉ niệm mà bạn không thể nào quên.

Dulichbui's Blog
Theo trang thông tin tỉnh Đồng Tháp

Thứ Năm, 30 tháng 7, 2009

Tả-pí-lù

Dulichbui's Blog - Từ nguồn cá tươi, sống, người xứ U Minh Thượng chế biến ra nhiều món ăn rất độc đáo dưới những hình thức khác nhau như : chiên, kho, canh v.v... Nhưng ăn một lần để nhớ suốt đời thì phải nói đến món “tả-pí-lù”...


Sở dĩ có cái tên nghe là lạ, hay hay như vậy là vì đây là món ăn có nguồn gốc từ cộng đồng người Hoa di cư ở U Minh Thượng. Nguyên nghĩa tiếng Hoa của từ "tả-pí-lù" là ăn ngấu nghiến ngay trên lò nấu.
Thực chất, đây chính là món cá tái.
Người ta chọn cá to, nhiều thịt để thái thành từng miếng mỏng. Cá nguyên liệu thường dùng nhất là cá lóc, cá trê, đôi khi cũng sử dụng luôn cả cá rô, cá sặc bướm lọai lớn. Những miếng cá này được nhúng trong nồi nước đang sôi có thành phần cơ bản là dấm, nước dừa tươi có nêm gia vị. Miếng cá săn lại, chuyển sang trạng thái tái thì được vớt ra ăn ngay, không để chín hoàn toàn, vì nếu qua chín, lúc đó thịt mềm, bở ra như đã bị luộc, mất ngon.
Ăn cá tả-pí-lù phải có nước mắm cay, ngon, rau nhiều.
Nước mắm phải được chế biến lại thành một thứ nước chấm khá đặc biệt: Vừa mặn, lại phải có hậu vị ngòn ngọt, chua chua, thơm thơm và cay nồng. Thông thường thì người ta dùng nước mắm nguyên chất (nhất là nước mắm Phú Quốc, nếu không thì ít ra cũng phải là nước mắm hòn Sơn Rái là hai hòn đảo nổi tiếng của Kiên Giang về sản xuất lọai thực phẩm này ) để chế biến nước chấm. Cách pha chế không khó, nhưng nếu không chú ý thì sẽ rất dễ hỏng. Trước tiên là phải có vài tép tỏi, mấy trái ớt chín (ớt hiểm càng tốt) cho vào chén dùng chày giã nát, sau đó trộn thêm ít đường cát rồi chế giấm hoặc vắt chanh vào, trộn lên cho đường tan đi. Cuối cùng là cho nước mấm vào quậy đều, khi thấy những mảnh tỏi, ớt nhỏ nổi hết lên trên là được. Nếu sai qui trình này, ớt và tỏi chìm xuống đáy chén thì ăn mất ngon.
Rau trong món ăn này khác với rau của món cá nướng trui, dù cũng là rau đồng. Do cách thưởng thức món tả-pí-lù là ăn ngay khi vớt cá ra khỏi bếp, lại là cá tái nên rau cũng được tái chung, ăn tới đâu nhúng tới đó cho nóng, nhưng không để lâu trong nồi nước sôi. Phần lớn rau là các lọai mọc ven bờ mẫu, chân ruộng mới gặt hái xong như rau cóc, tàu bay, chân vịt, muống đồng,… không phải lọai dùng để ăn sống.
Cá, rau đều nóng, thức hấm lại cay nên không khí trong bữa ăn với món tả-pí-lù thật tuyệt: Rất vui tai với tiếng đũa chạm vào chén hay xoong, nồi lạch cạch pha lẫn với tiếng trò chuyện rôm rã và tiếng xì xụp, hít hà của những người không quen ăn cay. Người lần đầu tiên được ăn tả-pí-lù với người dân địa phương, chắn chắn sẽ nhớ suốt đời món ăn độc đáo này.
Món ăn ngon, lạ miệng này dần dần lan sang người Việt, người Khmer và được hưởng ứng nhiệt tình. Có người nói món tả-pí-lù là món lẫu. Thực chất thì về hình thức, lẫu cũng được ăn theo cách ấy. Song với lẫu thì thịt cá gì cũng có thể sử dụng được (nên ngày nay mới có lọai “lẫu thập cẩm”) vì vậy, đó có thể chỉ là một sự cải biến của món tả-pí-lù mà thôi.


Phương Lan
Trang thông tin tỉnh Kiên Giang
Ảnh: vnnavi.com

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2009

Các khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam

Dulichbui's Blog - Tại Khóa 19 Hội đồng điều phối quốc tế Chương trình con người và sinh quyển (Hội đồng MAB) tổ chức ở thủ đô Paris, Pháp từ ngày 23 – 27/10/2006 khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) Kiên Giang đã được công nhận là khu DTSQ thế giới. Như vậy đến nay cả nước có tất cả 5 khu DTSQ thế giới. Mỗi khu DTSQ của Việt Nam có những đặc điểm, đặc trưng và giá trị riêng...


Các khu DTSQ thế giới của Việt Nam là: Cần Giờ, Cát Tiên, Cát Bà, đồng bằng sông Hồng, Kiên Giang, vườn quốc gia Pù Mạt và mới nhất là mũi Cà Mau (tỉnh Cà Mau) và Cù Lao Chàm (Hội An - Quảng Nam).

1- Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang

Khu DTSQ Kiên Giang có ba vùng lõi thuộc các Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc, và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải. So với 4 khu DTSQ được công nhận trước đó, khu DTSQ Kiên Giang có phần đa dạng hơn về cảnh quan cũng như hệ sinh thái. Tổng diện tích chính xác của khu DTSQ Kiên Giang là 1.118.105 ha, lớn nhất trong số các khu DTSQ thế giới tại Việt Nam hiện nay.
Về cảnh quan bao gồm các mẫu cảnh quan tiêu biểu và độc đáo là rừng tràm (Melaleuca) trên đất than bùn khu vực U Minh Thượng; khu vực đảo Phú Quốc có nhiều sông suối, các bãi tắm chạy dài dọc bờ biển; khu vực Kiên Lương – Kiên Hải với hơn 30% diện tích là đồi núi và hải đảo, còn lại là rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ngập nước theo mùa vùng Tứ giác Long Xuyên.
Khu DTSQ Kiên Giang là nơi tập trung nhiều hệ sinh thái rừng nhiệt đới như: hệ sinh thái rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh, hệ sinh thái rừng trên núi đá, hệ sinh thái rừng ngập chua phèn, hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rú bụi ven biển và hệ sinh thái rạn san hô - cỏ biển. Đây là nơi bảo tồn nhiều nguồn gen động vật và thực vật quý hiếm (sẽ được đề cập chi tiết hơn ở bài giới thiệu riêng về khu DTSQ Kiên Giang).

2- Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ
Khu DTSQ này có tên đầy đủ là khu DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ, thuộc t.p Hồ Chí Minh (tp.HCM), được UNESCO công nhận vào ngày 21/01/2000, tổng diện tích trên 71 ngàn ha, dân số hơn 57 ngàn người.
Cánh rừng này được giới chuyên môn đánh giá là rừng ngập mặn đẹp nhất Đông Nam Á được khôi phục sau khi bị chất độc hóa học hủy diệt gần như toàn bộ trong thời gian chiến tranh. Tên cũ của rừng là rừng cấm Quảng Xuyên - Cần Giờ. Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, nơi đây nổi tiếng với những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh và nhiều loài động vật hoang dã. Chất độc hóa học đã rải xuống nhiều lần trong suốt gần 10 năm chiến tranh (1964-1972) làm cho hơn 80% rừng ngập mặn có nhiều cây cổ thụ bị chết. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng mới được khôi phục lại.
Khu DTSQ Cần Giờ cách tp.HCM 30-40km đường chim bay, đây được coi là “lá phổi xanh của thành phố” bởi có chức năng điều hòa không khí, giảm ô nhiễm và hấp thu CO2 do các hoạt động công nghiệp thải ra từ tp.HCM. Ngày nay những quần xã thực vật bản địa mà loài đước đôi (Rhizophora apiculata) chiếm ưu thế ở đây không còn nguyên vẹn do bị chất độc hóa học của Mỹ hủy diệt. Thay vào đó là quần xã thực vật rừng tái sinh và trồng mới, trong đó chủ yếu là cây đước nhập giống từ rừng Năm Căn, Cà Mau vì nguồn giống tại chỗ của Cần Giờ không đủ cung cấp (đến năm 1990 mới có nguồn giống đước tại chỗ). Từ năm 1984 trở đi, một số loài cây khác như gõ biển (Intsia bijuga), dà vôi (Ceriops tagal), dà quánh (C. decandra), cóc trắng (Lumnitzera racemosa), xu ổi (Xylocarpus granatum), tra (Thespesia populnea),... cũng được trồng để phủ xanh các vùng đất cao, ít ngập triều.
Khu DTSQ Cần Giờ có vùng lõi 4.721 ha. Vùng này đặc trưng cho các hệ sinh thái rừng trồng và đặc biệt là rừng ngập mặn tái sinh tự nhiên dọc theo các kênh rạch và bìa rừng với tính đa dạng sinh học cao về thành phần các loài động vật, thực vật, vi sinh vật với cảnh quan rừng ngập mặn đa dạng.
Vùng đệm của khu DTSQ Cần Giờ hơn 37 ngàn ha. Còn lại là vùng chuyển tiếp có diện tích hơn 29 ngàn ha. Đây được xem là vùng phát triển bền vững, nơi cộng tác của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ đi đôi với tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng.

3- Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên
Khu DTSQ Cát Tiên, thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình phước, Lâm Đồng và Đắc Lắc, được UNESCO công nhận ngày 10/11/2001, tổng diện tích gần 729 ngàn ha. Đây là một khu rừng mưa ẩm nhiệt đới cuối cùng còn sót lại ở miền Nam nước ta, với rất nhiều loài động thực vật quí hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng, đặc biệt là loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus). Các hệ sinh thái ở đây cung cấp rất nhiều dịch vụ sinh thái trong đó phải kể đến chức năng điều hòa nước vùng thượng nguồn sông Đồng Nai, cung cấp nước ngọt vào mùa khô và khống chế ngập lụt vào mùa mưa cho cả một vùng rộng lớn Đông Nam bộ, kể cả T.P Hồ Chí Minh.
Các hệ sinh thái rừng đặc trưng ở đây là rừng lá rộng thường xanh, rừng tre nứa, rừng hỗn giao,… chạy dài từ vùng núi cao xuống tận cao nguyên Lâm Đồng, xen lẫn là các hệ sinh thái đồng cỏ, đất ngập nước cùng với rất nhiều loại hình vùng chuyển tiếp sinh thái (Ecotone). Đây là nơi giao thoa của các loại rừng mưa ẩm nhiệt đới núi cao, cao nguyên và phức hệ rừng hỗn giao, đất ngập nước đầu nguồn làm nên sự đa dạng và phong phú không nơi nào có được ở nước ta. Đây là nơi ở và kiếm ăn cho nhiều loài động vật quí hiếm bao gồm các loài động vật có vú, chim, bò sát, cá, côn trùng, sâu bọ,…
Trải dài trên diện tích của bốn tỉnh, khu DTSQ Cát Tiên có diện tích lớn nhất về các hệ sinh thái nội địa. Có 11 dân tộc anh em sống ở đây, những dân tộc chính bao gồm: người Kinh (vùng đồng bằng, đất thấp), người S’Teng và Châu Mạ, Châu Ro sống định cư ở đây từ vài thế kỷ. Ngoài ra còn có các dân tộc ít người mới từ miền Bắc chuyển vào như Tày, Nùng, Dao, Hoa, H’Mông,… khu DTSQ có tổng số 32 xã, thị trấn nằm trong địa giới hành chính của 13 huyện, thị trấn thuộc 4 tỉnh với hơn170 ngàn dân.
Vùng lõi của khu DTSQ có diện tích gần 74 ngàn ha, là vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên. Do một số vùng rừng nguyên sinh còn sót lại, đa dạng sinh học ở đây được giữ lại gần như ở trạng thái nguyên vẹn. Vùng lỏi này có nhiệm vụ bảo tồn 1.610 loài thực vật, trong đó có 31 loài quí hiếm, 23 loài chỉ có ở Cát Tiên. Trong số các loài thực vật có 30 loài được bảo tồn nguồn gen, 511 loài cây gỗ (176 loài gỗ quí), 550 loài cây làm thuốc và hàng trăm loài có giá trị thực phẩm, lấy dầu, lấy sợi,… Hiện có có 34 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam như gỗ đỏ (Afzelia xylocarpa), cẩm lai (Dalbergia oliveri), giáng hương (Pterocarpus macrocarpus),... Các loại rừng này là nơi ở và kiếm ăn của các loài động vật chỉ có ở vùng rừng nhiệt đới.
Đến nay, đa dạng sinh học của Cát Tiên vẫn chưa xác định hết, công việc này vẫn còn đang tiếp tục. Đến nay các nhà khoa học đã công bố 77 loài thú, 318 loài chim, 58 loài bò sát, 28 loài lưỡng cư và 130 loài cá, trong đó nhiều loài có nguy cơ bị tuyệt chủng như voi châu Á (Elephas maximus), tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus), heo rừng (Sus scrofa), bò tót, voọc vá chân đen ( Pygathrix nigripes), vượn đen má hung (Hylobates gabriellae). Trong khu DTSQ có 3 loài chim đặc hữu là gà so cổ hung (Arborophila davidi), gà tiền mặt vàng (Polyplectron germaini) và chíc chạch xám (Macronous kelleyi). với nhiều loài chim nước rất hiếm như ngan cánh trắng, già đẫy... và rất nhiều loài sâu bọ,... Trước đây Cát Tiên còn có Cá sấu nước ngọt (Crocodylus siamensis), nhưng hiện tại loài này gần như đã tuyệt chủng. Trong những năm gần đây loài cá sấu này được đưa trở lại trong điều kiện tự nhiên của khu vực Bầu Sấu.
Vùng đệm của khu DTSQ Cát Tiên có diện tích trên 251 ngàn ha. Mặc dù gọi là vùng đệm nhưng do Cát Tiên có nhiều sinh cảnh rừng khác nhau từ rừng thường xanh nguyên sinh, rừng rụng lá nguyên sinh và thứ sinh, trảng bụi, trảng cỏ, đất ngập nước với các loại hồ và các trảng cỏ ngập nước theo mùa và nhiều kiểu sinh cảnh giao thoa sinh thái liên tục giữa vùng lõi và vùng đệm, không ở đâu thấy rõ vai trò của vùng đệm quan trọng như thế nào đối với công tác bảo tồn ở vùng lõi như ở khu vực này.
Vùng chuyển tiếp của khu DTSQ Cát Tiên có diện tích trên 403 ngàn ha.

4- Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà
Tên chính thức là khu DTSQ quần đảo Cát Bà, thuộc tp.Hải Phòng, được UNESCO công nhận vào ngày 2/12/2004. Khu DTSQ này có tổng diện tích hơn 26 ngàn ha, trong đó vùng lỏi là 8.500ha, vùng đệm gần 8 ngàn ha và vùng chuyển tiếp là 10 ngàn ha; số dân trên 10 ngàn người.
Trong khu DTSQ Cát Bà có một quần thể voọc duy nhất còn sót lại trong những mảng rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là voọc Cát Bà. Loài này có tỉ lệ sinh sản rất thấp, có thể tiêu hoá được những lá cây mà hàm lượng độc tố dù rất nhỏ đã có thể gây chết đối với con người. Mang trong mình những bí ẩn của thiên nhiên, cùng với nhiều loài quí hiếm và những cảnh quan đẹp nổi tiếng.
Quần đảo Cát Bà thuộc địa phận huyện Cát Hải, cách tp. Hải Phòng 60 km. Cát Bà có 620 loài thực vật bậc cao phân bố thuộc 438 chi của 123 họ. Rừng ở đây là loại hình rừng mưa nhiệt đới thường xanh trên núi đá vôi hợp thành từ nhiều kiểu phụ như rừng trên đỉnh và sườn núi đá vôi, rừng kim giao, rừng ngập nước trên núi (ao ếch) và rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn nằm ở phía Tây Bắc đảo, các loài chủ yếu bao gồm đước, trang, ô rô, ráng, sú,... đặc trưng của vùng bờ biển Đông Bắc bộ. Dưới biển là các hệ sinh thái san hô, cỏ biển, tảo phù du, tảo đáy.. Đây là môi trường lý tưởng cho các loài thuỷ hải sản. Có giả thuyết cho rằng bò biển (Dugong dugon) đã từng sống ở đây cùng với cá heo và một số loài động vật khác.
Cát Bà có 32 loài thú, 69 loài chim và 20 loài bò sát, lưỡng cư. Nhiều loài quý hiếm như voọc đầu trắng, sơn dương, rái cá, báo, mèo rừng, cầy hương, sóc đen,... Đặc biệt voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi polyocephalus) là loài đặc hữu của Cát Bà, nên nó được mang tên voọc Cát Bà. Nhiều loài chim quý cũng cư trú hoặc di cư đến đây như sâm cầm, khướu, chim cu xanh, cu gáy,...
Khu DTSQ Cát Bà có hai vùng đệm. Vùng đệm khu trung tâm (vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha và vùng đệm bao quanh cả hai vùng lõi có diện tích 7.600 ha, trong đó có 4.800 ha phần đảo và 2.800 ha phần biển. Đây là vùng có chức năng phát triển kinh tế tăng thu nhập cho người dân trợ giúp cho công tác bảo tồn vùng lõi.

5- Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng
Tên chính thức là khu DTSQ đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, thuộc 5 huyện Thái Thụy, Tiền Hải (Tỉnh Thái Bình); Giao Thủy, Nghĩa Hưng (Tỉnh Nam Định) và Kim Sơn (Tỉnh Ninh Bình). Khu DTSQ châu thổ sông Hồng được UNESCO công nhận vào ngày 2/12/2004. Tổng diện tích của khu DTSQ này lớn hơn 105 ngàn ha, vùng lõi có diện tích hơn 14 ngàn ha, vùng đệm gần 37 ngàn ha, vùng chuyển tiếp trên 54 ngàn ha, có số dân trên 128 ngàn người.
Đây là khu DTSQ liên tỉnh bao gồm cả Vườn quốc gia Xuân Thuỷ, khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải và các vùng phụ cận, Khu Ramsar Xuân Thuỷ cũng nằm trong khu DTSQ này. Đây là khu Ramsar được công nhận vào năm 1989, là khu đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam tính đến thời điểm này. Ramsar là tên Công ước bảo vệ những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của những loài chim nước, do các nước tham gia ký tại tp. Ramsar, Cộng hoà Hồi giáo Iran. Xuân Thuỷ cũng là khu Ramsar đầu tiên của Đông Nam Á và thứ 50 của thế giới.
Khu DTSQ này hiện đang lưu giữ những giá trị đa dạng sinh học phong phú với các loài quý hiếm và có tầm quan trọng quốc tế. Các công trình nghiên cứu đã công bố khoảng 200 loài chim, trong đó có gần 60 loài chim di cư, hơn 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới như: cò thìa (Platalea minor), mòng bể (Larus ichthyaetus), rẽ mỏ thìa (Tringa orchropus), cò trắng bắc (Egretta eulophotes),... Sinh cảnh đặc sắc nơi đây là những cánh rừng ngập mặn rộng hàng ngàn ha, đầm lầy mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông. Những cánh rừng này được ví như bức tường xanh bảo vệ đê biển, làng xóm khỏi bị tàn phá bởi gió bão, nước biển dâng, thậm chỉ cả thảm hoạ sóng thần nếu xảy ra. Rừng ngập mặn cũng là nơi nuôi dưỡng sinh đẻ của các loài hải sản. Như một vườn ươm cho sự sống của biển, rừng ngập mặn cung cấp nguồn lợi thuỷ sản phong phú cùng với 500 loài động thực vật thuỷ sinh và cỏ biển cung cấp nhiều loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, cá biển, vạng, trai, sò, cá tráp, rong câu chỉ vàng,...
Khu DTSQ châu thổ sông Hồng có hai vùng lõi và năm vùng chuyển tiếp.

6. Mũi Cà Mau - khu dự trữ sinh quyển thế giới
Khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau được đề cử với quy mô 371.506ha với 3 vùng: Vùng lõi 17.329ha, vùng đệm 43.309ha và vùng chuyển tiếp 310.868ha. Tại vùng lõi được chia làm 3 vùng nhỏ là các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau (huyện Ngọc Hiển) và Vườn Quốc gia U Minh Hạ (huyện U Minh) và dải rừng phòng hộ ven biển Tây Cà Mau.
Vùng mũi Cà Mau có 4 đặc trưng sinh thái chính: hệ thống diễn thế nguyên sinh trên đất bãi bồi; hệ thống chuyển tiếp các hệ sinh thái đặc trưng từ rừng ngập mặn sang rừng tràm ngập nước ngọt theo mùa; là vùng bãi đẻ và nuôi dưỡng con non các loài thủy hải sản cho cả vùng biển rộng lớn (kể cả vịnh Thái Lan) và nơi lưu dấu tích cư dân đầu tiên di cư từ các vùng miền trong cả nước.
Khu vực này rất đa dạng sinh học, có nhiều vùng sinh quyển độc đáo và hiếm có trên thế giới: Ở Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau và Vườn Quốc gia U Minh Hạ có nhiều loài động vật quý hiếm, có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Sách Đỏ thế giới. Đặc biệt, tại Vườn Quốc gia U Minh Hạ còn có nguồn than bùn với quy mô hàng nghìn hecta, được hình thành lâu đời và có nhiều tác dụng tích cực đối với môi trường và cuộc sống.
Bên cạnh đó, khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau còn có nhiều di sản văn hóa, nhân văn đặc sắc, phản ánh lịch sử hình thành, phát triển và đời sống tâm linh của các dân tộc cư trú trong vùng.
Mau đã đề xuất đến Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, Ủy ban quốc gia về con người và sinh quyển Việt Nam cho xây dựng và đệ trình hồ sơ khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau là khu dự trữ sinh quyển thế giới, tổ chức khảo sát nhiều đợt và nhiều cuộc hội thảo khoa học.
Và đến nay, mũi Cà Mau đã chính thức được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cà Mau cam kết thực hiện đầy đủ các mục tiêu hợp tác quốc tế trong mạng lưới bao gồm: Nghiên cứu khoa học, tổ chức giáo dục và giám sát ở cấp khu vực và toàn cầu.
Cùng với mũi Cà Mau, Việt Nam còn có Cù Lao Chàm (Hội An - Quảng Nam) được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới đợt này. Như vậy, hiện trên toàn cầu có 22 khu dự trữ sinh quyển thế giới, trong đó riêng Việt Nam có 8 khu, gồm: Rừng ngập mặn Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh), Vườn Quốc gia Cát Tiên (thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Lâm Đồng và Đắk Lắk), quần đảo Cát Bà (Hải Phòng), vùng đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ Sông Hồng (thuộc các tỉnh Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình), Vườn Quốc gia Pù Mạt (Nghệ An), Vườn Quốc gia Kiên Giang (tỉnh Kiên Giang), Cù Lao Chàm (Hội An - Quảng Nam), mũi Cà Mau (tỉnh Cà Mau).

7. Vườn Quốc gia Pù Mạt (Nghệ An)
Nghệ An là một trong những địa phương còn bảo tồn được diện tích rừng nguyên sinh vào loại lớn nhất trong cả nước với nhiều loại động thực vật quý hiếm. Rừng nguyên sinh Pù Mát, được đánh giá là một trong những khu rừng quí có giá trị không chỉ về mặt kinh tế mà còn rất hấp dẫn về du lịch bởi sự hoang sơ, cảnh quan tuyệt đẹp và môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm. Đây sẽ là cụm du lịch có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển loại hình du lịch sinh thái của Nghệ An. Tài nguyên du lịch chủ yếu của khu du lịch này là: Vườn Quốc gia Pù Mát, thác Khe Kèm, suối Nậm Mọc, sông Giăng, đập Phà Lài, bản Cò Phạt - nơi tộc người Đan Lai sinh sống...Vườn có diện tích 91.113 ha được xem là khu vực có diện tích rừng tự nhiên rộng nhất miền Bắc Việt Nam. Vườn có hệ thực vật rất đa dạng và phong phú: có tới 1.513 loài thực vật bậc cao thuộc 159 họ 545 chi. Trong Vườn có tới 220 loài cây thuốc quý giá như: hà thủ ô, thổ phục linh, quế, ba kích, hoài sơn... và các loài cây lấy gỗ, có trầm hương và có hơn hàng trăm loại rau, cây ăn quả các loại. Hệ động vật có 42 loài thú lớn, 20 loài thú nhỏ, 295 loài chim... Có thể kể tên một số loài như: hổ, báo hoa mai, báo gấm, heo rừng, voọc, vượn đen, gấu chó... Vườn Quốc gia Pù Mát là nơi có đàn voi lớn nhất Việt Nam, các loài chim quý như: Trĩ Sao, Gà lôi, Gà tiêu... Có thể nói Vườn Quốc gia Pù Mát là rừng thiêng, là kho báu tự nhiên của nhân loại, là khu du lịch sinh thái hấp dẫn, lý tưởng. Trong vườn có nhiều thác nước đẹp, nhiều hang động, có cảnh quan lý thú. Vào Vườn Quốc gia Pù Mát, du khách như lạc vào xứ sở của thiên đường với cây cảnh muôn loài. Trên các triền núi cao từ 1.500m trở xuống gọi là rừng lùn, nhiều nơi được coi là cảnh tiên. Cây rừng khổng lồ xen giữa những hòn non bộ, mỗi cây là kỷ vật của tạo hoá với nhiều dáng vẻ. Khu du lịch này rất thuận lợi cho sự phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch khám phá thăm và tìm hiểu phong tục tập quán của các bản dân tộc. Đến đây, du khách còn được tham dự các lễ hội tiêu biểu của vùng ưa thích loại hình du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm.

8. Cù Lao Chàm:


“Cù Lao Chàm là vùng quần đảo ven biển nằm ở miền Trung Việt Nam, nổi tiếng với các loài sinh vật biển như rặng san hô, động vật thân mềm, giáp xác và tảo biển. Khu dự trữ sinh quyển này bao bọc lấy Hội An - một di sản văn hóa thế giới - xưa vốn là một thương cảng chứng kiến sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và châu Âu” - UNESCO giới thiệu.
Cù Lao Chàm là một quần gồm 8 đảo lớn nhỏ nằm trên khu vực biển có diện tích 15 km2 thuộc xã đảo Tân Hiệp (TP Hội An - Quảng Nam), phân bổ theo hình cánh cung cách Hội An 19 km. Cù Lao Chàm có trên 1.500ha rừng tự nhiên và 6.700ha mặt nước, được đánh giá là nơi có sự đa dạng sinh học hiếm có trên thế giới. Trong đó, đảo lớn nhất là Hòn Lao, với khoảng 3.000 ngư dân sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản.
Cù Lao Chàm sở hữu rặng san hô rộng 165 ha, gồm 188 loài, 61 giống thuộc 13 họ khác nhau. Khu vực này có hơn 200 loài cá, xuất hiện trong 500 ha rong biển, tảo, cỏ biển… Ngoài ra, sự phong phú của rặng san hô, các thảm cỏ biển, rong biển là môi trường sinh sống, phát triển lý tưởng của các sinh vật đáy như thân mềm, giáp xác, da gai, giun… với mật độ dày đặc.
Không chỉ “giàu có” về các sinh vật biển, quần thể động, thực vật trên cạn của Cù Lao Chàm cũng rất có giá trị. Xã đảo này có nhiều loài cây quý hàng trăm năm như tuế, vông nem và là nơi có độ bao phủ của thảm thực vật lớn. Điều kiện này cũng giúp các loài động vật phát triển, trong đó có 12 loài thú, 13 loài chim, 130 loài bò sát và 5 loài lưỡng cư. Hai trong số đó có tên trong Sách đỏ Việt Nam là chim yến và khỉ đuôi dài.
Cù Lao Chàm - Hội An còn là một quần thể văn hóa, nơi còn nhiều di tích của các nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa và Đại Việt. Từ hơn 3.000 năm trước, nơi đây đã có người sinh sống và trong lịch sử, đay đã từng là một thương cảng nức tiếng, là nơi neo đậu của các thuyền buôn quốc tế trong hành trình giao thương trên biển.
UNESCO đánh giá: với sự hội tụ những giá trị văn hóa và thiên nhiên, sự đa dạng sinh học vốn có, Cù Lao Chàm - Hội An là địa chỉ lý tưởng để xúc tiến phát triển du lịch sinh thái bền vững.


Dulichbui's Blog (Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2009

Nhà tù Phú Quốc

Dulichbui's Blog - Nhà tù Phú Quốc (Kiên Giang) là di tích lịch sử cấp quốc gia được xếp hạng năm 1993. Từ một nhà tù với quy mô gần 500 nhà giam, đến nay chỉ còn lại 4 nhà nguyên gốc cùng một số cổng chào, bộ khung cửa nhà thờ và các nền đá… Nhiều khách tham quan đã đến thăm khu di tích lịch sử này – nơi một thời từng được mệnh danh là “địa ngục trần gian”.

Từ thời thực dân Pháp tiếp đến thời Mỹ-Ngụy, Nhà tù Phú Quốc đã tồn tại 20 năm (1953 - 1973). Đây là nơi tập trung điển hình về tội ác của chế độ thực dân, đế quốc. Ở đây kẻ thù tự do đặt ra nhiều kiểu hành hạ con người một cách dã man. Quản tù là những tên khát máu hành hạ tra tấn tù binh, vì thế hơn 4.000 người đã hy sinh trong tù. Với ý chí kiên cường, dũng cảm, mưu trí, anh em tù binh đã đối phó lại chúng bằng nhiều hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, phân hóa hàng ngũ địch, diệt ác ôn, tổ chức nhiều cuộc vượt ngục .vv… Nhà tù Phú Quốc thực sự là một bằng chứng xác thực ghi dấu tội ác vô cùng dã man của bọn xâm lược, đồng thời nói lên tinh thần bất khuất đấu tranh kiên cường của các chiến sĩ cách mạng.

Nhà tù Phú Quốc thời thực dân Pháp:

Tháng 9/1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Phú Quốc. Địch chọn Phú Quốc để lập nhà tù lớn nhất Đông Nam Á, giam cầm các chiến sĩ cách mạng, vì hòn đảo này có vị trí quân sự chiến lược, xa đất liền, xa các cơ quan báo chí ngôn luận để chúng dễ bề đàn áp tù nhân. Giữa năm 1953, Pháp dùng doanh trại của đám tàn quân Quốc Dân đảng để xây dựng nhà tù, gọi là Căng Cây Dừa. Nhà tù có diện tích khoảng 40 ha, hình chữ nhật, chia làm bốn trại A, B, C, D. Toàn Căng có hàng rào thép gai dày bao quanh, phía trên mắc dây điện trần và đèn bảo vệ. Chòi canh thường xuyên có lính gác. Mỗi cổng lại có một tiểu đội lính tuần tiễu được trang bị tiểu liên và súng trường. Vành ngoài có công sự chiến đấu. Số lượng tù binh thời kỳ này có khoảng 6.000 người. Đến tháng 4/1954 thì có khoảng 14 nghìn tù nhân đều là nam giới.
Chi bộ trong Nhà lao Cây Dừa đã lãnh đạo tù nhân đấu tranh, viết nội san bí mật, tổ chức nhiều cuộc vượt ngục thành công. Chỉ tính từ tháng 7/1953 - 9/1953 đã có 5 cuộc vượt ngục lớn. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954) Pháp trao trả cho ta số tù binh ở Nhà tù Phú Quốc.

Nhà tù Phú Quốc thời Mỹ_Ngụy:

Cuối năm 1955, ngụy quyền Sài Gòn lập lại Nhà lao Cây Dừa mà chúng gọi là Trại Huấn chính Cây Dừa. Trại chiếm diện tích khoảng hơn 20.000 m2. Xung quanh có ba lớp rào dây kẽm gai cao 2,6m. Ngoài ra có 14 tháp canh. Nhà tù Phú Quốc trong thời kỳ này cũng có tổ chức Đảng hoạt động bí mật và lãnh đạo anh em tù đấu tranh. Ta còn bắt mối được ba nội tuyến nằm sâu trong hàng ngũ địch, nhờ đó mà ta có thể thường xuyên đưa thuốc men, tin tức vào trong tù. Từ năm 1957 địch đưa tù chính trị ra Côn Đảo, còn Phú Quốc chỉ giam giữ tù binh. Sau Đồng khởi 1960, mức độ chiến tranh ngày càng ác liệt, Nhà lao Cây Dừa được Mỹ-ngụy chuyển đến xây dựng tại thung lũng An Thới kéo dài 5 cây số.

Khung cảnh trại giam
Mới đầu trại có 6 khu. Sau Mậu Thân 1968, địch mở rộng đến 11 khu, nhưng khu thứ 11 chưa kịp sử dụng. Mỗi khu trại giam lại chia làm 4 phân khu A, B, C, D, mỗi phân khu có từ 9 đến 18 nhà giam, mỗi nhà dài 20m, rộng 5m giam giữ từ 80 đến 120 người. Tổng số có đến 400 nhà, vách dựng bằng tôn thiếc, mái lợp thiếc, cửa cũng bằng tôn thiếc. Trưa nắng nhìn cả trại giam chói rực lên nhức mắt. Hầu hết nền nhà đều bằng đất nhưng sau những vụ đào hầm trốn tù, địch trám xi măng. Từng phân khu có hàng rào kẽm gai bao quanh, chỗ dày có thể từ 10-15 lớp rào, chỗ mỏng cũng 5 -7 lớp rào. Những bãi mìn dày đặc xung quanh nhà tù. Bao quanh nhà tù là một vành đai trắng, rộng hàng cây số, không một bóng nhà dân. Ban đêm trong những lớp rào có thả chó và ngỗng mai phục người tù trốn trại và đèn điện sáng trưng như ban ngày.

Bộ máy đàn áp
Nhà tù chia làm năm ban: Ban điều hành, Ban giám thị, Ban an ninh, Ban chiến tranh chính trị, Ban quân y. Chỉ huy trại giam là cố vấn người Mỹ, với 4 tiểu đoàn quân cảnh. Ngoài ra còn có một trung đội quân khuyển toàn là chó becgiê giống Anh. Riêng lực lượng hải quân tương đương một sư đoàn giăng kín ngoài biển… Tỷ lệ cứ 2 người tù có 1 người lính trông coi. Giám thị điểm danh cả ngày lẫn đêm liên tục để chống tù vượt ngục. Có một tốp trực thăng chiến đấu cũng thay nhau ngày đêm quần đảo trên bầu trời Phú Quốc tạo nên cảm giác ảm đạm ngột ngạt cho tù nhân. Bộ máy đàn áp nhà tù lên tới 4.000 người gồm cả hải, lục, không quân.

Thành phần tù binh Phú Quốc
Những người bị địch bắt đưa về nhà tù này gồm đủ các miền: Bắc, Trung, Nam. Số tù tăng lên nhiều từ năm 1968, cao nhất vào khoảng 40.000 người, tù nhân được chở từ đất liền ra bằng máy bay. Có người bị bắt khi địch đi càn, bị móc hầm bí mật, bị phục kích, chiến đấu bị thương rồi bị bắt. Một số tù là cán bộ dân chính đảng, là họa sĩ, nhạc sĩ, nhà báo…

Tình trạng ăn ở của tù binh
Nhà biệt giam không có giường sạp gì, một nhà giam 120 người chen chúc sống; không được đi cầu tiêu, chỉ có 2 cái thùng đựng phân trong nhà. Thân thể tù binh cả mấy tháng trời cũng không được tắm rửa lại phải nằm xếp lớp như lớp cá cạnh nhau. Vậy mà phải quen mùi cơm hôi, cá thối, rệp dưới lưng, quen luôn cả mùi phân ở thùng phuy đặt ở đầu nhà. Đêm nằm, dòi bọ từ đó túa ra chui cả vào miệng. Hàng ngày tù binh có lính áp giải vào rừng lấy củi, mây, gỗ hoặc đào công sự, hoặc làm đủ thứ việc nặng nhọc, làm tạp dịch phục vụ cho vợ con lính, người tù phải tự nấu cơm ăn, mỗi phân khu có một bếp ăn. Bữa ăn mỗi người chỉ được hai chén cơm hẩm với mấy miếng cá khô mà anh em tù gọi là cá long hội (nói lái là cá lôi họng) và một ít canh dưa leo. Còn ở khu biệt giam cấm cố thì lại càng tồi tệ, kẻ thù dùng cả bữa ăn để hành hạ tù binh, nước mỗi ngày cũng chỉ được mỗi người một ca vừa uống vừa để rửa. Quần áo thì chúng phát cho loại vải dày, nâu xẫm hoặc là những bộ quần áo cũ của lính Pháp, quần cộc. Trên lưng áo tù đều có đóng dấu hai chữ tù binh (T.B).

Những thủ đoạn hành hạ, tra tấn, giết hại tù binh
Ngay từ khi bước chân vào trong tù, tất cả mọi người bị địch bắt đều bị đánh phủ đầu để lấy cung, để uy hiếp nhằm làm nhụt tinh thần. Sự hành hạ, tra tấn, giết hại tù binh ở Nhà tù Phú Quốc ngày càng khắc nghiệt. Người tù bị phạt phơi nắng trên những dàn thiếc nóng như rang ngoài trời, da thịt ở bụng, ở ngực phỏng rộp lên, nhiều chỗ da non bị cháy xém, người yếu sức thường là ngất xỉu. Nếu cựa quậy chúng phang thẳng cánh dùi cui vào đầu hoặc sẵn sàng bắn bỏ. Người tù bị còn bị phạt leo cây nhum đầy gai nhọn, chúng bắt người tù leo lên ngọn rồi tụt xuống, không leo chúng đánh. Chỉ cần vài ba cái nhoài người là đùi, ngực, tay, chân bị nhòe máu. Phạt bắt ăn cơm trộn cát với nước tiểu: không ăn chúng đánh, đang ăn ói ra chúng cũng đánh và bắt hốt hết lên ăn nữa. Địch còn dùng gậy đập nát các đầu ngón chân, ngón tay, có thằng ác ôn còn bẻ răng tù binh làm bộ sưu tập răng để chơi. Rồi còn dùng dao rạch dương vật người tù cho đỉa trâu vào đó rồi khâu lại. Độc ác hơn nữa là phạt giam vào chuồng cọp. Chuồng cọp là một cái lồng bằng kẽm gai, cao 1m, dài 2m. Vào chuồng cọp thì không nằm, không đứng, cũng không bệt đít xuống được, nếu mỏi quá chỉ cần thay đổi động tác chút xíu là các cọc nhọn sắc cứa nát da thịt ngay. Nóng chúng cho kê lò than gần kề, lạnh chúng hắt thêm nước vô. Đêm đến chúng thường lôi người ra đánh, tiếng la rú, tiếng hét thật hãi hùng. Có người đang đêm cũng bị gọi đi tra tấn, bị đóng đinh vào mắt cá chân, vào đầu gối, thậm chí vào đầu. Rất nhiều bộ hài cốt còn cả những cái đinh 10 phân đóng vào xương chân, xương đầu gối, xương sọ. Những vật chứng này hiện còn bảo quản tại Nhà trưng bày của di tích Nhà tù Phú Quốc. Còn rất nhiều hình thức khác hành hạ, tra tấn tù binh dã man không khác gì hình phạt thời trung cổ.

Tổ chức và lãnh đạo đấu tranh của Đảng trong nhà tù
Các Chi bộ do tù binh tự thành lập theo kiểu du kích. Thường anh em dựa vào sự đã quen biết nhau từ trước, ở cùng quê hoặc cùng đơn vị để xác lập lòng tin, biết nhau là đảng viên rồi mới rỉ tai nhau lập một tổ, đủ 3 đảng viên thì nâng thành Chi bộ hoạt động phải rất bí mật và khôn khéo. Trong một nhà giam có thể có nhiều Chi bộ nhưng Chi bộ nào chỉ có thể biết đảng viên trong Chi bộ đó. Lúc đảng viên họp thực ra là ngồi tụm nhau ở một góc nhà giả đánh cờ hay đi ra ngoài hàng rào giả vờ đi tiểu để hội ý chớp nhoáng. Chỉ có Bí thư Chi bộ mới biết ai là Bí thư Đảng ủy. Người Bí thư Đảng ủy thường không để lộ diện trong các cuộc đấu tranh hay sự kiện nào. Khi kẻ thù phát hiện ra một chút manh mối nào là diệt ngay người đứng đầu, lôi đi tra tấn, truy tìm tổ chức của ta.
Đại bộ phận tù binh bị đẩy vào Nhà lao Phú Quốc vẫn giữ trọn lời thề danh dự thứ ba “Nếu bị địch bắt, dù trong trường hợp nào cũng giữ vững khí tiết là chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam … quyết không cung khai phản bội”. Những cuộc đấu tranh và bị đàn áp đẫm máu ở nhà tù xảy ra thường xuyên. Chẳng hạn vào năm 1965, lần ấy chúng bắt anh em tập hợp chào cờ Ngụy và hô đả đảo cộng sản. Anh em không chịu hô thế là chúng dùng dùi cui, báng súng đánh tới tấp, anh em đánh trả lại, chúng xả súng giết chết 78 người. Đầu tháng 9/1969 ở khu A4 biết được tin Bác Hồ mất, sáng hôm sau ngay trước cửa trại xuất hiện một băng vải đen rộng 10cm dài 200 cm viết chữ trắng “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Bọn giám thị bị bất ngờ nhưng chúng cũng chỉ dám lẳng lặng gỡ xuống rồi lặng lẽ đem đi chứ không gầm gào như mọi khi. Ít ngày sau bên khu sĩ quan ném đá sang báo tin, anh em bên ấy đã chích máu vẽ Bác Hồ ngay trên tường thiếc. Sau đó bọn giám thị bắt tù cạo rửa, tưới nước thế nào cũng không sạch, làm cách nào thì đôi mắt và hàm râu Bác vẫn hiện ra.

Vượt ngục

Nhiều anh em lúc mới bước chân vào nhà tù đã nung nấu ý định trốn tù. Có những vụ từ trong tự thoát ra. Có những vụ được lực lượng vũ trang bên ngoài hỗ trợ. Các vụ vượt ngục ở Nhà tù Phú Quốc có ba dạng trốn là: Vượt rào, đánh lính khi áp giải để chạy trốn, đào hầm thoát ra ngoài. Dụng cụ đào hầm tự chế bằng nắp cà mèn, cán muỗng. Cách đào phân công ba người một ca không mặc quần áo và đào vào ban đêm. Việc đào hầm không khó, khó nhất là làm sao giữ được bí mật. Vì vậy các đồng chí lên đầy đủ kế hoạch như lượng đất phải ép vào hai bên thành của hầm hoặc lợi dụng trời mưa đem đi đổ để xóa dấu vết, quan sát nếu có chỉ điểm thì trừ khử ngay.
Theo tổng kết có 42 vụ vượt ngục, trong đó có 16 vụ vượt rào, 15 lần đi riêng lẻ, 7 cuộc đánh quân cảnh, 4 lần đào hầm. Hơn 400 người ra đi nhưng chỉ có 239 người về được căn cứ kháng chiến .

Nghĩa địa nhà tù

Nghĩa địa nhà tù đặt ở sườn đồi thấp giáp nhà thờ. Năm 1985, chúng ta đưa được 835 bộ hài cốt về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ. Khi tìm hài cốt đã thu lượm được nhiều chiếc đinh mười phân còn đóng dính vào xương mu bàn chân, đầu gối và đỉnh đầu. Nghĩa địa này có lúc địch cho xe ủi san lấp đất lên rồi chôn tiếp tù binh lên lớp chết trước. Ngoài ra, kẻ thù còn mang tù binh ra thủ tiêu ngoài biển. Có không dưới 4.000 tù binh bị giết chết tại đây.
Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Nhà tù Phú Quốc bị giải tán. Tù binh được trao trả. Những câu chuyện khủng khiếp về một “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vẫn còn trong ký ức không thể nào quên và những gì diễn ra với số phận của hơn 40.000 tù binh nơi đây là không thể kể xiết. Một khúc bi tráng về tù binh Nhà tù Phú Quốc ghi vào lịch sử. Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích này là việc làm rất cần thiết và quan trọng.


Bùi Công Ba (tổng hợp)
Theo trang thông tin tỉnh Kiên Giang

Thứ Hai, 27 tháng 7, 2009

Cháo môn

Dulichbui's Blog - Môn ngứa là một loại khoai môn hoang dại. Nhưng qua bàn tay tài hoa và khối óc thông minh của những người chinh phục vùng đất U Minh, đã biến thành những món ăn rất hấp dẫn. Một trong số đó chính là món cháo môn…
Môn ngứa còn được gọi là môn nước, bởi loài cây này sống chịu nước. Chúng mọc hoang khắp nơi tại vùng nông thôn Kiên Giang. Đúng như tên gọi của nó, toàn thân đều có một thứ nhựa rất ngứa khi ăn vào hoặc đụng phải. Tuy nhiên, người xưa đã tìm ra những bí quyết riêng để khắc chế chất gây ngứa của môn để chế biến ra một số món ăn như dưa môn, cháo môn,… Dưa môn nhiều người đã từng thưởng thức, nhưng riêng cháo môn thì không phải ai cũng từng một lần được nếm qua.
Sở dĩ như vậy là vì nếu chế biến không đúng cách, chỉ cần một sơ suất nhỏ cũng có thể làm người ăn ngứa rát cổ họng suốt ngày.
Muốn nấu cháo môn, trước hết bạn phải chuẩn bị sẳn hai nguyên liệu chính là bẹ (nhánh) của cây môn ngứa và lươn. Bẹ cây môn ngứa được rữa sạch, cắt thành từng khúc ngắn. Còn lươn cũng chặt thành khúc như vậy sau khi làm xong.
Cách thức nấu cháo môn lúc ban đầu cũng giống như nấu cháo cá thôi. Có nghĩa là cũng dùng gạo (nhưng thường thì người ta dùng rất ít, cũng có khi không dùng gạo), nước để nấu lên cho sôi, chờ khi gạo chín nhừ thì cho lươn vào rồi nêm gia vị. Nếu nấu cháo cá lóc thì đến đó là ăn được rồi, nhưng với cháo môn thì đó mới chỉ là giai đoạn đầu. Sau khi lươn vừa chín, bạn phải giữ nguyên nồi cháo trên bếp lữa rồi từ từ cho môn vào.
Bí quyết là ở chỗ này: để khử chất gây ngứa của môn nước, bạn không bao giờ được tắt lữa trong suốt quá trình ăn cháo. Chờ đến khi những cọng môn nhừ ra là lúc bạn có thể thoải mái thưởng thức được món ăn độc đáo này rồi.
Theo những người lớn tuổi ở vùng U Minh Thượng, không những món ăn này rất ngon, mà nó còn có tác dụng giải các chất độc tích tụ trong cơ thể (lấy độc trị độc). Nếu mỗi năm chỉ được ăn một lần thôi thì cũng đủ giữ cho cơ thể luôn khoẻ mạnh.
Hiện nay, ở vùng Vĩnh Thuận, An Minh tỉnh Kiên Giang, số người biết làm món cháo môn không còn nhiều nữa.
Tố Như
Theo trang thông tin tỉnh Kiên Giang